Nguyễn Xuân Sanh cùng những tác phẩm dịch vang danh của nhà thơ Nicola Vapzarov phần cuối

Nguyễn Xuân Sanh cùng những tác phẩm dịch vang danh của nhà thơ Nicola Vapzarov phần cuối

Khi nhắc đến những nhà thơ có khối lượng thơ dịch xuất sắc thì không thể quên Nguyễn Xuân Sanh. Ông là một nhà thơ nổi tiếng được ví như một loài cây quý hiếm trong nền văn học Việt Nam. Những tác phẩm dịch của ông luôn khiến bạn đọc phải trầm trồ ngợi ca và tìm kiếm. Nổi bật nhất là tập những bài thơ dịch của nhà thơ Nicola Vapzarov. Hãy đón xem và cảm nhận nhé!

Khi nhắc đến những nhà thơ có khối lượng thơ dịch xuất sắc thì không thể quên Nguyễn Xuân Sanh. Ông là một nhà thơ nổi tiếng được ví như một loài cây quý hiếm trong nền văn học Việt Nam. Những tác phẩm dịch của ông luôn khiến bạn đọc phải trầm trồ ngợi ca và tìm kiếm. Nổi bật nhất là tập những bài thơ dịch của nhà thơ Nicola Vapzarov. Hãy đón xem và cảm nhận nhé!

Nội Dung

Огромен град със звезден покрив
и електрически слънца,
открил вратите си широко
за хилядите си деца.
Във теб гори, във теб се ражда
стремежа на един народ.
И в всеки камък, в всяка сграда
възхожда бодро нов живот.
Ти сбираш хиляди копнежи
в бетоненото си сърце;
съгрей ги, приласкай ги нежно,
обвий ги с своите ръце!
Пулсирай и напирай здраво
потискащите брегове!
Във всяка длан трепти корава,
желязна воля за прогрес.
Огромен град, бетонен град,
с едно бетонено сърце!
Като живота – вечно млад,
с протегнати напред ръце.

Dịch

Thành phố rộng với mái đầy sao
Và đầy mặt trời điện tử
Cửa thành phố mở thoáng xiết bao
Đón trăm nghìn đứa con yêu quý
Trong ngươi cháy bừng, trong ngươi sinh nở
Nguồn cảm hứng của nhân dân
Và trên mỗi ngôi nhà, mỗi viên đá
Toả lên một cuộc sống mới dần
Ngươi tụ tập muôn ngàn ước vọng
Trong trái tim cốt thép của mình
Ve vuốt chúng và đun nóng chúng
Dịu dàng ôm chúng trong tay
Hãy nện búa mạnh vào
Và vỗ sâu những hàng đanh tán
Trong mỗi lòng bàn tay lấp lánh
Chí tiến bộ thép của cần lao
Thành phố mênh mông, thành phố cốt sắt
Với một trái tim kim cương
Như cuộc đời – mãi mãi thanh xuân
Với những bàn tay mở về phía trước

Ти не ще се върнеш, Фернандес –
днес картечен огън ви помете.
Във полето вие като пес
неуморно непокорен ветър.
Тръбен знак. И след сигнала пак
става тихо, непонятно тихо…
Във окопа дреме синкав мрак,
а в гърдите брули бесен вихър.
После някой с пръсти рий земята,
после къс и истеричен смях…
Някой грабна ръчната граната,
заотвинтва и отново спря.
След сигнала ти политна пръв.
Недалече чу се лай картечен.
Олюля се… на челото кръв…
Фернандес, не ще се върнеш вече.
Ний превзехме стръмнината днес.
Врязахме се в тяхната верига.
Колко би се радвал, Фернандес.
само тъй… да можеш да се вдигнеш.

Dịch

Phéc-nan-đê, bạn không trở về
Hôm nay, nhằm thẳng bạn, trung liên đã quyét
Ngọn gió không ngừng gào thét
Như chó rống trên cánh đồng đất lạnh se
Hiệu kèn gọi. Rồi ngay sau đó
Một sự lặng im rất đỗi lạ lùng
Ngực bị giày vò trong ngọn gió
Chiến hào lao sâu, chiếc hầm màu xanh hãi hùng
Có những ngón tay ai đang cào đất
Hãy nghe, một tiếng cười điên loạn, không đều
Ai cầm chắc quả lựu đạn trong tay
Lại ngừng tay khi sắp mở chốt
Sau hiệu kèn, bạn ngã đầu tiên
Không xa đây, tràng liên thanh sủa
Máu đầm trên trán…bạn ngả nghiêng…
Phéc-nan-đê, bạn không về nữa
Ta vừa lấy được ngọn đèo
Đã thọc một mũi sâu vào hàng ngũ chúng
Phéc-nan-đê, bạn sẽ sung sướng
Nếu bạn có tể đứng dậy, lao theo

Вятър мята листи пожълтели,
до три лета не сме били в къщи.
Булките се мислят овдовели –
гледат Пирин, пръстите си кършат.
Не додея ли ни път във тъмно,
скръб за рожби ли не ни повея.
Да намериш камен да осъмнеш,
камен-зглаве, търне за постеля.
В къщите протекоха стрехите –
бурен нивите души, войводо.
“Стреляй горе, стреляй към звездите!
Нека паднем честни и свободни.”

Dịch

Cơn gió thả lá vàng rơi
Đã ba mùa hạ họ rời làng quê
Vợ yêu đứng đợi bên hè
Nắn ngón tay trỏ, nhìn về Pirin
Phải đâu quên mất đường tìm
Phải đâu không xót nỗi niềm xa con
Ta chọn cỏ gai làm giường
Chọn hòn đá rắn đêm trường nghỉ ngơi
Nước mái hiên, ngày đêm rơi
Cỏ dại cắn đất tơi bời, bạn ơi!
“Bắn lên sao, bắn lên trời
Đã hiện trên đất những người tự do”

Над горите,
над Пирина
вятър вие.
Ние тръгнахме
седмина
да се бием:
и зад нас
остана надалече
и Пирин,
и звездната му вечер.
С зверове
се криехме в шумака
и така преминахме
оттатък.
И познахме
сякаш по тревите
на бащите
кървите измити.
И познахме
сякаш по листата
майките ни
где лежат в земята.
И познахме
по пръста ръждива,
първата ни обич
где почива.
Тръгнахме седмина
да се бием.
Само трима
върнахме се ние.

Dịch

Trên rừng lặng im
Trên núi Pirin
Ngọn gió hoang rú
Chúng tôi xếp hàng ngũ
Bảy người
Bảy người đi chiến đấu
Đằng sau
Xa đằng sau
Sừng sững núi Pirin
Và đêm sao của nó
Với những con thú hoang
Chúng tôi nấp trong lá
Và như có phép lạ
Chúng tôi sang bên kia
Của cái chết
Chúng tôi biết
Như trên đám cỏ
Ông cha chúng ta
Đã từng đẫm máu
Và chúng tôi biết
Sau những khóm lá biếc
Các mẹ chúng ta
Trên đất quê nhà
Đâu nơi yên nghỉ
Mối tình đầu chúng ta
Chúng ta ra đi
Bảy người bạn
Chiến đấu diệt quân thù
Ba người với chúng tôi
Trở về với làng xóm

Като бетонен блок над нас
тежи барутната тревога.
Душите ни ръмжат: – Война!
В душите кръв, и смут и огън.
Аз виждам тоя смут дори
сега в фабричните комини,
на запад в залеза или
в небето тъй спокойно синьо.
И в тези дни, кажи ми ти,
когато ни притягат в обръч,
в сърцето, грях ли е, кажи,
че пазя още кът за обич?
Кажи ми грях ли е, че пак,
дори и в този шум фабричен,
процепен с зъл картечен грак,
си мисля: – Колко я обичам!…
Да, вярно, мъничкият свет
на нашата любов е тесен,
затуй със поглед, впит напред,
ти пиша толкоз малка песен.

Dịch

Như một khối xi măng trĩu bẹp người
Đè nặng lên ta cuộc báo động đầy bụi khói
Tâm hồn ta thét to: Chiến tranh dữ dội
Trong mọi tâm hồn: sự xáo trộn, lửa, và máu trôi
Bây giờ tôi thấy sự xáo trộn
Ngay trên các ống khói lò cao
Phía tây nơi mặt trời vừa trốn
Ở đó bầu trời xanh dạt dào
Hãy trả lời tôi đi, trong những ngày này
Khi chúng ta bị giữ trong một vòng vây
Trong lòng ta, phải chăng là tội lỗi
Khi tôi dành một góc cho mối tình sôi nổi?
Trả lời tôi đi, phải chăng tội lỗi
Khi trong nhà máy đầy tiếng ồn
Súng trung liên nhả đạn huyên thiên
Tôi nghĩ: “Tôi yêu nàng quá đỗi!…”
Vâng, đúng vậy, thế giới không to
Của tình yêu vô cùng nhỏ hẹp
Với con mắt nhìn về phía xa
Anh viết cho em một bài hát đẹp

Неспирно напирай, разраствай,
издигай бетонни стени!
На робството черната напаст
потъва в далечни мъгли.
Издигай в небето антени,
с сирени покоя разбий!
И в утрото нека засмени
прогреса посрещнеме ний!
Че всяка израснала сграда,
подпряла небесния свод,
е крепост, която изгражда
народът за мирен живот.
Стремително, смело нагоре!
В небето, където тупти
размерно сърцето моторно,
издигай бетонни стени!
Издигай в небето антени,
с сирени покоя разбий!
И в утрото нека засмени
прогреса посрещнеме ний!

Dịch

Mọc không ngừng và lớn lên nhanh
Những bức tường cốt sắt dựng đứng
Chế độ nô lệ không còn thế vững
Trong lớp mù sa bị đổ tan tành
Trong trời xanh toả những dây trời
Còi báo hiệu cảnh bình yên đã mở
Với buổi sáng tươi cười
Chúng ta đón mừng Tiến bộ!
Mỗi ngôi nhà gạch được xây lên
Nắng đỏ cả bầu trời xanh thắm
Nó là một pháo đài thiêng liêng
Nhân dân đắp cho cuộc đời êm thấm
Mãnh liệt, anh hùng hướng chiều cao
Trong khoảng trời luôn luôn nhộn nhịp
Trái tim kiên trinh của xí nghiệp
Đứng vững những bức tường cao
Trong trời xanh toả những dây trời
Còi báo hiệu cảnh bình yên đã mở
Với buổi sáng tươi cười
Chúng ta đón mừng Tiến bộ!

Гълъбите гукат
в близката гора
По тревата падат
сребърни пера.
Мене ми е леко
като никой път –
чувствам се ефирен,
чувствам се
без плът.
През елите бликат
слънчеви лъчи.
Ще затворя свойте
блеснали очи,
но пак ще усетя
с чудна яснота
как ще ме целуне
топло пролетта.
Волно във простора птиците летят.
Пеят и извиват серпантинен път.
В песента познавам химна вдъхновен,
с който ще посрещнем утрешния ден.

Dịch

Chim bồ câu gù
Trong rừng bên cạnh
Những lông tơ trắng
Rơi trên cỏ xanh
Tôi thấy mong manh
Như từ lâu lắm
Tâm hồn cao thẳm
Tâm hồn phiêu diêu
Qua tán bách tùng
Ánh trời chói rạng
Tôi khép vui mừng
Đôi con mắt sáng
Tôi lại cảm thương
Tia nắng dị thường
Tay mùa xuân ấm
Ôm tôi đằm thắm
Trong bầu trời, chim bay tự do
Chúng liệng vòng quanh và hát
Chúng hát một bài thánh ca
Cùng ta đón một ngày mai bát ngát

Работиме много,
работим от сутрин до здрач.
Но хлеба е малко.
Но хлеба не стига, деца.
И ваште лица
са сгърчени вече от плач.
И ваште очи
са сухи и неми –
такива големи,
мъчително тъжни очи…
И в тех е стаен
ужас свиреп:
хлеб!
хлеб!
хлеб!
Послушайте, малки,
послушайте, мънички мои, –
така е днес,
наверно било е и вчера.
И аз, понеже нямам храна,
понеже нямам с какво,
ето на:
ще ви нахраня
със вера. –
Ще дойдат години
и ний ще ги стигнем водите
ще впрегнем в бетонен ръкав.
Не ще ги изпуснем, нали?
Ще ги впримчиме здраво.
Ще им кажем:
“Така ще вървите!”
И те ще тръгнат – така!
Ще имаме хлеб тогава.
Ще имаме хлеб!
И радост в очите ще имате,
мънички мои.
Имам ли аз –
то значи да има за теб,
имаш ли ти –
то значи да има безброя.
И толкова хубав ще бъде
тогава живота.
И днешната плесен
ще бъде безкрайно далеко.
Ще пееме всички.
Ще пеем, когато работим,
но радостни песни,
които ще славят човека.
И, ако случайно
и аз остарея, тогава
ще гледам от своя прозорец
далечния път,
ще гледам как вие се връщате,
бодри и здрави,
и тихо ще шепна:
“О, колко е хубав светът!”
Така и ще бъде!
А днеска оскъден е хлеба.
На вашите майки
гърдите са сухи сега.
Да хленчим – не ще ни помогнат
и хленч не ни трябва.
Но мен ме притиска
жестока, дълбока тъга. –
За вашто “сега”
е горест стаена във мен.
Ала
не бойте се, деца,
за утрешния
ден.

Dịch

Chúng ta làm việc nhiều
Từ sáng cho đến tối
Song bánh mì ít ỏi
Không đủ chén, con ơi
Gương mặt các con tôi
Giày vò trong nước mắt
Mắt các con đau thắt
Như điếc và như câm
Những cặp mắt to tròn
Biết bao nhiêu đau khổ
Gương mặt, con mắt đó
Dựng mấy nỗi ê chề
Bánh mì!
Bánh mì!
Bánh mì!
Các con hãy nghe cha
Hãy nghe cha cho rõ
Ngày hôm nay vậy đó
Ngày mai cũng vậy thôi
Cha, không có ăn rồi
Không gì nuôi con cả
Naof, đây
Cha, sẽ nuôi các con
Bằng tấm lòng tin tưởng
Tháng năm ròng sẽ đến
Chúng ta thắng dây cương
Buộc tháng ngày yêu thương
Vào cánh tay sắt thép
Cầm tù chúng nơi đây
Ta sẽ không buông tay
Và ta sẽ bảo chúng:
“Bay cứ bước thế này!”
Vẫn đi qua, tháng ngày
Rồi ta phải có bánh
Mắt các con sẽ vui
Các con ơi
Bởi vì nếu ta có
Thì các con sẽ có
Đã có cho các con
Là sẽ vô cùng tận
Đời sẽ đẹp bao nhiêu
Đám mốc bẩn tiêu điều
Sẽ biến xa mải miết
Chúng ta vừa làm việc
Vừa đồng thanh hát ca
Những bài hát chan hòa
Đón chào con người mới
Nếu nhỡ cha già đi
Từ cửa sổ nhà ta
Cha có thể nhìn thẳng
Thấy các con trở về
Vui tươi và khoẻ mạnh
Cha sẽ nói thầm lặng:
“Thế giới đẹp làm sao!”
Ngày mai sẽ là vậy
Song những ngày hôm nay
Ta đang thiếu bánh mì
Vú mẹ hiền các con
Vẫn cạn khô rông rốc
Than vãn và kêu khóc
Chẳng ai giúp ta đâu
Ta đâu cần than vãn
Nhưng nỗi buồn sâu đậm
Uất ức đè ngực ta
Thấm thía trong lòng cha
Có nỗi đau vô hạn
Cha sẽ làm quà tặng
Nhưng chớ sợ, con ơi
Ngày mai rồi sẽ đến!

Ще строим завод,
огромен завод,
със яки
бетонни стени!
Мъже и жени,
народ,
ще строим завод
за живота!
Децата ни мрат
в отровната смрад,
без слънце,
в задушни коптори.
Светът е затвор.
Мъже и жени, народ,
ни крачка назад!
Ще строим завод
за живота!
Децата ни мрат
в задушната смрад
със жадни за слънце очи.
А ние? – Бездушно
превиваме врат
и мълчиме,
позорно мълчим.
Прокарахме мрежи
и в тях укротена тече,
да, нашата кръв
преминава
в проводните мрежи
и движи живота.
А той ни помита,
влече
и ние го гледаме
с тъпа, наивна
небрежност.
Със нокти дълбахме скалите.
В гранита
тунели пробихме.
Опасахме с релси земята,
в недрата й
всичко открихме.
Антени замрежват небето,
където
в мъглите
забити
са небостъргачи,
а още нагоре в простора
стоманени
гарвани
грачат.
Другари,
да бъдем наясно –
не удрям клеймо
на прогреса,
и знам прекрасно,
че не прогреса е, който ни души.
И ние не ще го рушим. –
Ще строим завод,
огромен завод,
със яки
бетонни стени.
Мъже и жени,
народ,
ще строим завод за живота!

Dịch

Chúng ta sẽ xây một nhà máy lớn
Một nhà máy lớn tường cốt sắt bọc vôi
Hỡi bạn nam và bạn nữ tôi ơi
Hỡi đồng bào yêu quí
Chúng ta sẽ xây một nhà máy lớn
Của cuộc đời
Con chúng ta chết
Trong mùi hôi thê thảm
Không ánh sáng mặt trời
Không mái lều gianh
Thế giới hiện nay là một nhà tù đó
Hỡi bạn nam và bạn nữ
Hỡi đồng bào
Không một bước lùi xa
Chúng ta sẽ xây một nhà máy lớn
Của cuộc đời
Con chúng ta chết
Trong mùi hôi bê bết
Với hai con mắt thèm ánh sáng mặt trời
Còn chúng ta thì đầu cúi xuống
Tơi bời
Chúng ta làm thinh
Làm thinh mà hổ thẹn
Chúng ta mắc trên tường những đường dây điện
Vào đây máu chúng ta quyện
Vâng, máu chúng ta chảy trong dây điện vòng quanh
Và đẩy cuộc sống đi nhanh
Nhưng cuộc sống quét chúng ta, kéo chúng ta đi
Còn chúng ta thì nhìn cuộc sống ngây thơ uể oải
Chúng ta đã đào tảng đá bằng những móng tay dằng dải
Chúng ta đã đào hầm xe lửa xuyên sơn
Chúng ta đã buộc trái đất bằng đường sắt
Chúng ta đã khám phá
Được lắm thứ trong lòng trái đất
Đây máy bắt làn sóng điện ngang dọc trời cao
Trên đó
Trong mây mù bao phủ
Vượt lên những ngôi nhà lớn chọc trời
Và trên cao nữa trong không gian chơi vơi
Còn kêu to những con quạ thép
Chúng ta phải rõ ràng, hỡi những người đồng chí
Tôi không trách đâu
Tiến bộ của hoàn cầu
Tôi rất biết
Rằng tiến bộ không chèn ép chúng ta
Và chúng ta cũng không bao giờ
Lại đi nghẽn bước đường của tiến bộ
Chúng ta sẽ xây một nhà máy đó
Một nhà máy rộng mênh mông
Tường cốt sắt không thể vỡ được mà hòng
Hỡi bạn nam và bạn nữ
Hỡi đồng bào
Vì con cái thân yêu
Mà chúng ta sẽ xây một nhà máy lớn
Của cuộc đời

Ти виждаш:
издути платна,
луна на небето излезла,
и мислиш:
живот е това,
живот преизпълнен
с п о е з и я.
Отгоре –
изгряват звезди.
Небето –
седефено свети.
От сушата
кроткият бриз
с ръката си
къдри
морето.
Ех,
волен рибарски живот,
описан
във толкова песни!
На мачтата – бяло платно …
Така да описваш
е лесно. –
Турни му “безкрайно море”,
залей го излеко
с синило
и всичко излиза добре –
картинно
и мило.
А туй,
че със вълчи зъби
студеният вятър ни хапе
и като тежки
сачми
те бият смразените капки?
Прогизнал
се връщаш дома
от влага.
А лодката зее.
И в кърмовия долап
две риби
във мрака сребреят.
Христос да би слязъл
сега
с две риби
какво ще направи?
От мъка –
очите горят,
гърдите –
омраза задавя.
На покрива
в рядката тръст
дъждът се полека оцежда.
Заспиваш.
И после в съня
изгрява далечна надежда …
Ех,
черен човешки живот!
Рибарски живот! –
н е и з в е с т н о с т.
Не мож го разправи,
а то –
иди, че реди го на песен …

Dịch

Bạn xem:
Buồm no gió
Trăng ló trời xa
Và bạn nghĩ:
Đó đời sống
Một đời sống
Đầy thơ
Trên cao
Sao nhấp nhánh
Bầu trời
Chói lọi, sắc xà cừ
Từ bờ
Gió hiu hiu
Đưa ngón tay
Mơn man
Mặt biển
Ôi
Đời sống tự do của dân chài
Mà bao bài thơ đã ca ngợi
Trên cột buồm
Một cánh buôm trắng
Miêu tả như thế
Thật dễ dàng
Hãy để vào đó
Một “biển vô biên”
Tô nhẹ lên
Một màu xanh
Và tất cả biến thành rất tốt
Mỹ lệ
Và dễ thương
Nhưng làm thế nào
Với hàm răng chó sói
Gió buốt cắn da ta
Và với hạt bằng chì
Những hạt mưa đá dội đầu ta?
Bạn trở về nhà
Run
Ướt át
Và trong chiếc thuyền
Há hốc
Hai con cá
Óng ánh bạc trong đêm tối
Nếu Chúa Trời giáng xuống
Lúc này
Ông sẽ làm gì
Với hai con cá?
Cặp mắt nóng bỏng
Bị giày vò
Trái tim
Nặng căm hờn
Dưới mái lều
Lợp cói
Bạn ngủ thiếp
Nước mưa rỏ chậm rãi
Rồi trong giấc ngủ
Một nỗi hy vọng xa dâng lên
Ôi
Đời sống cực khổ con người
Đời sống dân chài
Không chắc chắn
Đời sống ấy – khó kể
Nào, bạn hãy ra đi
Để làm một bài ca về cuộc sống

Nguyễn Xuân Sanh là một nhà thơ nổi tiếng cùng một kho tàng thơ đặc sắc để lại dấu ấn sâu sắc của bạn đọc. Những thi phẩm dịch của ông đã giúp ông khẳng định tài năng vốn có của mình. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi!

Xem Thêm: Nguyễn Xuân Sanh cùng những tác phẩm dịch vang danh của nhà thơ Nicola Vapzarov phần đầu

 

shop hoa tưoi thanh pho vi thanh hau giang

shop hoa thành phố vị thanh , shop hoa tươi thành phố vị thanh  ,shop hoa tươi an giangiang

 xem thêm >> hoa sinh nhật đẹp , hoa khai trương, hoa đám tang, điện hoa , hoa lan hồ điệp  . shop hoa tươi Địa chỉ shop hoa


xem thêm >> hoa sinh nhật đẹp , lẵng hoa khai trương ,  điên hoa chia buồn , dien hoa 

shop hoa tươi quang binh

Bài viết trước:

BÀI VIẾT MỚI