BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc Của Cao Bá Quát Phần 2

Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ nổi tiếng, đóng góp không ít những tập thơ hay, những vần thơ với nhiều lĩnh vực khác nhau cho kho tàng văn học Việt Nam. Lời thơ giản dị nhưng đầy hàm ý, nhắn nhủ đối với thế hệ mai sau, cố gắng xây dựng tổ quốc, bảo vệ dân tộc.

Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ nổi tiếng, đóng góp không ít những tập thơ hay, những vần thơ với nhiều lĩnh vực khác nhau cho kho tàng văn học Việt Nam. Lời thơ giản dị nhưng đầy hàm ý, nhắn nhủ đối với thế hệ mai sau, cố gắng xây dựng tổ quốc, bảo vệ dân tộc.

xem thêm…

Tiếp nối BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc Của Cao Bá Quát Phần 1, Mời các bạn tham khảo và nghiền ngẫm một số bài thơ của Cao Bá Quát (Phần 2) dưới đây để hiểu hơn về ông và phong cách thơ của ông nhé!

Nội Dung

Di ngụ Diên Phúc tự
Cửu khách tri giai xứ,
U cư tá phạm đài.
Tùng âm xâm hộ thuý,
Liên kháp mãn trì khai.
Ngâm hứng bồ biên toạ,
Miên tàn thạch khánh thôi.
Toàn my nhân mạc nhạ,
Đoan bất thuyết Như Lai.

Chùa Diên Phúc ở thôn Gia lâm, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử, nghệ thuật ngày 28/4/1994.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Di Xuân dĩ bồn liên vị thu phong sở tồi hữu thi kiến ký nhân thứ kỳ vận ca dĩ hoạ chi
Vi hoa đương tác liên,
Hương thanh cán trực tư dung tiên.
Hoàng nê ngũ đẩu thuỷ nhất xích,
Biệt hữu phong trí như động thiên.
Công thành ý toại diểu nhiên khứ,
Bất dữ phàm huỷ tương phan liên.
Thả chước bạch ngọc trản,
Thí ngâm “Thu thuỷ” thiên.
Phong lưu tiêu sái hứa thuỳ khả?
Ngã thị Phù Dung thành chi tản tiên.
Nhân gian vạn sự liêu nhĩ nhĩ,
Hoan hoa miết nhãn chân khinh yên.
Nghiêm phong thê lộ bản sinh ý,
Bất tác quá đương ngô thiên tuyền.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Di Xuân văn dư vi Phạm thị chi du ký tặng tam tuyệt, thứ vận thù chi kỳ 1
Tráng niên hiệp tác nhàn du vị,
Thanh thế kham tu lạn tuý phầu.
Yên ái lưu nhân xuân dục mộ,
Nguyệt minh thân tại Phạm gia lâu.

Dịch nghĩa
Thuở trẻ chưa làm chung cuộc nhàn du,
Đời thanh bình có thể say khướt hay không?
Mây râm mát giữ người, xuân muốn chiều tối,
Trăng sáng thân ở lầu nhà Phạm.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Di Xuân văn dư vi Phạm thị chi du ký tặng tam tuyệt, thứ vận thù chi kỳ 2
Khan hoa khan liễu phục khan mai,
Tổng bất phân minh dã khước giai.
Thì dữ khê sơn hàm biến thái,
Vi mang cổn tác hoạ đồ lai.

Dịch nghĩa
Xem hoa, xem liễu, lại xem mai,
Tất cả không rõ là thứ nào đẹp.
Cùng với núi khe từng lúc mà biến vẻ,
Mơ hồ linh động thành tranh vẽ.

Di Xuân văn dư vi Phạm thị chi du ký tặng tam tuyệt, thứ vận thù chi kỳ 3
Quá phong bộ lý sinh y lãnh,
Đảo nguyệt khai tôn chiếu ảnh cô.
Thử dạ thử tình chân tạc mộng,
Bất tri quân tại mộng trung du.

Dịch nghĩa
Đi bộ trong gió làm áo sinh lạnh,
Bày cuộc rượu sấp ánh trăng rọi bóng lẻ loi.
Đêm này tình này thật như mộng đêm qua,
Không biết rằng ông còn đi chơi trong mộng.

Du Đằng giang dữ hữu nhân đăng Kim Chung tự, tuý hậu lưu đề
Trượng phu tam thập bất thành danh,
Đạp biến thiên nhai khí vị bình.
Đoản phát thượng tu liên ngã tại,
Mê dương hà sự nệ ngô hành?
Hữu nô giải ái Tiêu tài tử,
Vô tửu thuỳ kiêu Nguyễn bộ binh?
Ngâm bãi thất ca cánh hồi thủ,
Mang mang thân thế độc hu hành.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Dịch nghĩa
Trượng phu ba mươi tuổi, chẳng nên danh gì
Dạo khắp ven trời, khí bất bình chưa dịu
Mái tóc cằn vẫn thương ta còn sống
Cỏ mê dương, cớ sao vướng bước ta đi?
Có đầy tớ, là người biết yêu tài tử họ Tiêu
Không có rượu, ai tưới cho bộ binh họ Nguyễn?
Ngâm xong bảy bài ca ngoảnh đầu nhìn lại
Thân thế mờ mịt, chỉ đáng trừng mắt trông đời

Lời tựa:
Thiên sở dữ dã hữu hạn, lãm phận tảo dĩ tức cơ,
Ngô chi sinh dã vô nhai, duyệt thế thâm nhi ngụ thán.
U nhân khâu hác,
Xử sĩ viên lâm.
Dữ ngã tương di,
Tương tử vô nộ.
Hành hành thả chỉ, lộ tận bạch điền thanh trúc chi gian,
Hắc hắc hà ngôn, nhân tại lạc chiếu cô vân chi ngoại.
Bạn ngã giả thuỳ? Hữu đồng nhất tử,
Dữ dư hà sự? Duy tửu nhất hồ.
Tống công chi thanh hác đan nhai, trinh phi tuyệt tục,
Hứa tử chi thanh phong lãng nguyệt, đạt dĩ khoáng hoài.
Liêu đắc thú dĩ vong ngôn,
Khởi minh tâm nhi trường vãng?
Ư dĩ tốt tuế, ninh vấn giang hồ lưu ngụ chi tung,
Thuỳ kỳ tương tri, thỉnh tục Giang Hán tư quy chi vận.
天所與也有限,覽分早以息機,
吾之生也無涯,閱世深而寤歎。
幽人邱壑,
處士園林。
與我相遺,
將子無怒。
行行且止,路盡白田青竹之間,
嘿嘿何言,人在落照孤雲之外。
伴我者誰?有童一子,
與予何事?惟酒一壺。
宋公之青壑丹崖,貞非絕俗,
許子之清風朗月,達以曠懷。
聊得趣以忘言,
豈冥心而長往?
於以卒歲,寧問江湖流寓之蹤,
誰其相知,請續江漢思歸之韻。
(Trời cho ta có hạn, biết phận sớm để nghỉ ngơi
Đời ta sống không bờ, trải đời lâu mà than thở
Vườn rừng của người xử sĩ
Hang núi của bậc u nhn
Ta trói thờ ơ
Người cũng đừng giận
Đi đi rồi nghỉ, đường đã hết ở nơi đồng vắng tre xanh
Lẳng lặng nói gì, người đã đứng ở ngoài nắng chiều mây tản
Lấy ai làm bạn?
Có chú tiểu đồng
Cùng ta mua vui
Chỉ một bầu rượu
Kìa Tống công với non xanh núi đỏ, ngay thẳng mà chẳng xa đờ
Nọ Hứa tử với gió mát trăng trong, phóng đạt mong chờ hỏi dạ
Chỉ cốt được thú vui quên lời nói
Có đâu lòng mờ mịt mà bước lan tràn
Chơi cho trọn năm, không cần hỏi dấu tích giang hồ qua lại
Ai người biết đến, xin vịnh tiếp vần thơ Giang Hán mong về)

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Người ta thường gọi chỗ sông Hồng chảy qua Hưng Yên là Đằng giang vì thuộc xã Xích Đằng và Đằng Châu. Theo nghĩa bóng, người ta cũng dùng chữ Đằng giang để chỉ tỉnh Hưng Yên. Chùa Kim Chung tục gọi là chùa Chuông ở xã Xích Đằng.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Thành Vị tức Nam Định vì có sông Vị Hoàng chảy qua.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du mỗ cố trạch dạ thính đàn tranh
Tố thủ điều tranh kịch khái khang,
Nhập xoang đáo để Tiểu Tần vương.
Bát niên thoại biệt bồi hồi cửu,
Nhất dạ thương xuân yểm ức trường.
Liên tử hữu tâm tri độc khổ,
Dương hoa vô lực vị thuỳ mang ?
Thí chiêu bách hộc Tô giang thuỷ,
Biến dữ nhân gian tẩy tục trường.

Dịch nghĩa
Tay ngọc dạo nắn cây đàn tranh, nghe rất sảng khoái
Phả vào xoang điệu, rõ ràng như khúc Tiểu Tần vương
Xa nhau trong tám năm trường, còn bâng khuâng mãi
Một tối thương xuân càng ấm ức hoài
Hạt sen ôm tấm lòng đắng ngắt, chỉ một mình mình biết
Hoa dương liễu yếu ớt, vì ai mà cứ tất tả bay
Muốn thử khơi cả trăm hộc nước dòng sông Tô lại
Để rửa cho người đời sạch hết bụng dạ dơ dáy

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Nam Tào sơn tự, lâu thượng ký vọng đề bích trình Thúc Minh kỳ 1
Trấp niên phong cảnh khước trùng qua,
Như thử giang sơn nại ngã hà!
Thế ngoại du tri kim nhật hảo,
Toạ trung khách tự cố nhân đa.
Kiếp giang xuân nhập danh vương miếu,
Phượng lĩnh yên tàng cựu ẩn gia.
Mạc hướng Cổ Phao thành hạ vọng!
Anh hùng vãng sự uỷ thương ba.

Nam Tào là một ngọn núi ở Vạn Kiếp, tỉnh Hải Dương, gần đền thờ Trần Hưng Đạo.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Nam Tào sơn tự, lâu thượng ký vọng đề bích trình Thúc Minh kỳ 2
Phỏng đạo danh sơn nguyện vị thù,
Vạn An kiều ngoại thử yêm lưu.
Thí huề trọc tửu tầm u kính,
Cánh hướng thanh giang lộng biển chu.
Cửu khúc khê tuỳ phong thế chuyển,
Bách niên nhân trục mộ triều lưu.
Nam Tào bạ lĩnh ưng tu vấn,
Mộng đáo chư thiên tối thượng đầu.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Phù Đổng thiên vương miếu hữu cảm nhi đề
Tam tải tiềm long thế vị tri,
Nhất triêu phấn khởi đại sự vi.
Kim tiên phá lỗ thiên thanh chấn,
Thiết mã đằng không cổ kim kỳ.
Việt điện kiền khôn lưu vĩ tích,
Ân giao thảo mộc thức dư uy.
Chi kim từ vũ tùng phong động,
Do tưởng đương niên đắc thắng quy.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Dịch nghĩa
Rồng náu ba năm, đời chưa ai biết
Một sớm vùng dậy làm nên sự việc phi thường
Roi vàng phá giặc thay tiếng trời thét vang
Ngựa sắt bay lên không, để lại dất vết cũ kỳ lạ
Trời đất cõi Việt còn mãi công lao lớn
Cây cỏ đất Ân cũng khiếp uy phong vang dội
Đến nay, ở nơi đền miếu, mỗi khi có gió thông reo
Còn tưởng như năm nào thắng trận trở về

Nguồn: Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, NXB Văn học, 1970

Du Quan thị viên cư khán cúc
Kim phong sắt súc khởi vi lương,
Tùng quế u lan các tự hương.
Sơ đạm sổ chi xuất danh cúc,
Phận tương nhất bức tả thu quang.
Ly biên kỹ giả tầm Đào lệnh,
Trì bạn thượng thư vấn Cát cương.
Trường dục dữ quân kết hoa xã,
Bốc cư tiên dĩ tuý vi hương.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 1
Sảng chử phồn châm mạc yếm xuân,
Nhất khâu nhất hác vị toàn bần.
Địa lưu tuế nguyệt vô sầu cảnh,
Thiên tá giang hồ độc hạnh nhân.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 2
Điên đảo xuân tâm bất tự trì,
Tây Hồ chân cá tự Tây Thi.
Doanh doanh thuý đại ba bình hậu,
Khúc khúc quần yêu thảo lục thì.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 3
Thành bắc môn đầu yên hoả đông,
Lâu đài nhất bán xạ cao không.
Thiên nhiên nhai tác Nga My thuỷ,
Tính nhập Nùng sơn vãn chiếu trung.

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 4
Khuyến nhĩ trừng ba tửu nhất chi,
Thiếu niên dư tối giải nhân di.
Khiên lai tây bạn sơn vưu hảo,
Sản khước đông biên quách cánh nghi.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 5
Ngũ phiếm phiếm khinh chu khứ vị hoàn,
Cô vân trú xứ thị cô sơn.
Cao lang chi tự mai hoa sấu,
Xuân tứ hồn như bệnh hạc nhàn.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 6
Phất tụ đê khan tiếu bất ngôn,
Phong tình vị tận ám tiêu hồn.
Phách khai sổ bức tân đề tự,
Đạm hoá tam niên cựu tửu ngân.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 7
Dục bả không can phiếm bích lưu,
Vong tình tạm tá khiển xuân sầu.
Ngư nhi vị tín phi ngư phủ,
Chúng chúng như dân khiếp thụ câu.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Tây Hồ bát tuyệt kỳ 8
Tung Lạc phong lưu vãng sự dư,
Cô bồng yên thuỷ lại tình sơ.
Tha niên nhất lạp tầm tăng khứ,
Thuỳ thức Hương Sơn lão thượng thư?

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du Tiên Lữ động văn nhân đàm Thái Nguyên sơn thuỷ chi thắng, tuý hậu thành ngâm
Thiên công diệc hà sự?
Vị trí Thái Nguyên san.
Chỉ thử nhất quyền tiểu,
Thần tạc quỷ phục ngoan.
Hàm nha hiện cổ động,
Cật khúc tàng phong loan.
Cô kinh nhập nguy đặng,
Lộ nhược thông thiên đàn.
Thọ đằng dữ quái thạch,
Ngạo ngột thế tuyệt phan.
Duy hữu chúng viên điểu,
Khiếu hô tương vãng hoàn.
Bất tri cổ hà nhân,
Tư yên tịch thiền quan.
Chí kim nham cốc trung,
Kim bích nhất cải quan.
Thử bang tích chướng dịch,
Huống nãi phong vũ khan.
Danh sơn nan biến du,
Cử tửu ý dĩ lan.
Hoắc Sơn, Tam Hải vân mạn mạn,
Ngã dục tòng chi hành lộ nan.
Thuỳ năng vị ngã trừu thử nhất ngung động,
Thố chi Tây Hồ chi thượng, Châu Long, Phượng Chuỷ chi gian?

Tiên Lữ là động trong dãy núi ở tỉnh Thái Nguyên. Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép ở xã Hoà Trung, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, có một cái động trong có cột đá, phía trước sau động đều có cửa thông nhau, hai bên có một hang lên trời, một hang xuống đất, trong động có chùa thờ Phật, chính là động này.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Du vân
Du vân vị hữu quy,
Đán mộ bất đắc nhàn.
Phong tòng hà phương lai?
Xuy nhập tằng phong gian.
Tứ hải dĩ vọng vũ,
Ngũ lôi trường bế san.
Cử thủ thị thiên biểu,
Nguyện ngôn túng cao phan.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Triêu đăng Hoành Sơn lập,
Mộ há Bàn kính dục.
Huề thủ lưỡng phiến thạch,
Giang sơn bất doanh cúc.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Vong tình tự tiếu ngã hà năng,
Ai lạc niên lai tiệm bất thăng.
Nại biệt hữu giam tàng cựu kính,
Công sầu vô ảnh bạn cô đăng.
Chẩm biên hương mộng tam canh viễn,
Cân lý sương mao nhất dạ tăng.
Thuỳ niệm xuân hàn trung lộ khách,
Ngưu y lang tạ lệ thành băng.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Tiêu tiêu liên mạc nhất tham quân,
Ngâm đáo tu ngu bất nhẫn văn.
Vạn lý yên ba do tác khách,
Tam xuân phong nguyệt thặng phùng quân.
Phiếm tra mạn tự đàm Trương sứ,
Quyết nhãn bằng thuỳ điếu Ngũ Viên.
Ngã thị Trung Nguyên cựu nhân vật,
Tây phong hồi thủ lệ phân phân.

Hoàng Liên Phương là một thương nhân Hoa kiều có kho hàng ở Riau, Singapore, nhiều lần tiếp chuyện và làm thơ thù tạc cùng Cao Bá Quát nhân chuyến dương trình hiệu lực Cao Bá Quát đến vùng Hạ Châu.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

U cư sầu tuyệt cổ thành ôi,
Hốt tác Giang Nam nhất mộng lai.
Lãn ngã dĩ khai cao ngoạ kính,
Cố nhân ưng thướng Vọng Hương đài.
Khổ liên thanh nhãn sinh tương hứa,
Độc tín đan tâm tử vị hôi.
Hồi thủ Hải Vân phan bất đáo,
Phiêu phiêu thuỳ lệ hướng nam mai.

Tuần Phủ là tự của Nguyễn Văn Lý (1795-1868), hiệu Chí Hiên, Chí Đình, Đông Khê, còn có tự Chí Am, người làng Đông Tác, huyện Thọ Xương, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, là bạn thân của tác giả. Ông đỗ cử nhân khoa Ất Dậu (1825), tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1832) đời Minh Mệnh. Ông từng giữ các chức Hàn lâm viện biên tu, Tri phủ Thuận An, Án sát Phú Yên, Đốc học Hưng Yên.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Bình sinh bách sự bất do tâm,
Tráng chí tha đà thặng đáo kim.
Dĩ bất nhẫn văn Hoàng Điểu phú,
Khả năng độc ký Ngoạ Long ngâm.
Quan Tây cổ giốc liên thành động,
Đẩu Bắc tinh vân ngũ dạ trầm.
Phiêu bạc thử thân thành để dụng,
Nhất xuân tiều tuỵ bệnh niên xâm.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Xuân thiên hà minh mông,
Xuân sơn liên vạn trùng.
Du tử vãn huề hồ,
Hào hứng lăng trường không.
Khách đạo Côn Sơn chi thượng thanh thả u,
Dữ tử tương tương phỏng cổ du.
Khoá cao độ hiểm nhiễu la kính,
Dao chỉ âm âm thương thụ đầu.
Giải y phân thủ tản bộ hành,
Tùng đào vị ngã trữ viễn tình.
Tam Thanh, Bát cảnh như truy tuỳ,
Đỗng Tân, Thái Bạch phân tống nghinh.
Ngưỡng diện cao thanh khiếu thái cổ,
Hàn tiêu táp táp phong linh linh.
Đê thanh phục ngâm “Tử phủ” chương,
Phiên nhiên phi phát đăng sơn quynh.
Sơn quynh thượng hữu Phạm vương đài,
Cổ tích thương thương ế lục đài.
Kiến thuyết Trần công cựu du thưởng,
Chí kim sơn khí y nhiên giai.
Thấu Ngọc kiều biên dã hoa tiểu,
Thanh Hư động lý văn đề điểu.
Ức Trai phú tại dữ thuỳ luận?
Thiên cổ cao danh phó tình hạo.
Duy hữu Trần triều thiền giả bất hoại thân,
Y y tuệ nhãn chiếu kim nhân.
Lãng truyền thế đế giai hoả trạch,
Cánh hữu hà nhân thám pháp luân?
Hành khách bất tri du tử ý,
Mạn hướng sơn tăng thuyết thiền lý.
Tôn tiền hữu tửu quân thả ẩm,
Vị quân nhất ca Hàn Sơn tử.
Cổ Phao thành hạ Lục Đầu tân,
Thỉnh quân bắc vọng khán tích nhân.
Bách chiến giang sơn thặng ngư đĩnh,
Vạn cổ anh hùng nhất tụ trần.
Chước chước quân mạc từ,
Nhân thế bi hoan bất đồng thì.
Kim nhân du thưởng hậu nhân bi,
Tức tâm liễu nghĩa chân như si.
Ngột toạ cùng thiền hề dĩ vi?
Chước chước quân mạc từ!
Sơn tiêu phục hữu cao tùng tam lưỡng chi,
Phan trắc diểu nhập hoang.
Minh vân thiên ngoại phi,
Chinh điểu tương dữ hoàn.
Lạc diệp phân phân nhi,
Du nhân quy bất quy?

Côn Sơn: núi thuộc xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, Hải Hưng. Phan Long Trân chưa rõ là ai.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Dương phụ hành
Tây Dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ thanh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly!

Dịch nghĩa
Người thiếu phụ phương Tây áo như tuyết
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng
Kéo áo chồng thì thầm nói
Tay cầm uể oải một chén sữa
Đêm lạnh à đây gió biển thổi
Nghiêng mình đòi chồng đỡ dậy
Biết chăng có người Nam đang chịu cảnh biệt ly.

Bài thơ này từng được sử dụng trong chương trình SGK Văn học 11 giai đoạn 1990-2006, nhưng đã được lược bỏ trong SGK Ngữ văn 11 từ 2007.

Nguồn: Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập III), NXB Văn hoá, Hà Nội, 1963

Mục túc phong cao tang thuỷ trường,
Cùng biên cực mục cảnh bi thương.
Thiên bàn điêu ngạc thu phong kính,
Dã mục ngưu dương tái thảo hoang.
Sa mạc túng vô khai chiến phạt,
Vân sơn do tự khái thương tang.
Bất phiền tiện đạo Long Thành cổ,
Hội tứ kim hoàn xuất kiến chương.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Tạc nhật tiểu hàn thử vị hưu,
Kim nhật đại hàn hàn sưu sưu.
Tài quá hàn hầu hậu phục kỷ nhật,
Truyền nhãn dĩ thị nhất niên chu.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Bần gia chỉ phạ độc hàn thôi,
Phú gia khước ố thử phục hồi.
Nhân tình giao cạnh lưỡng vị quyết,
Na tri tân tuế ám trung lai.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Đình cơ lâu thượng vọng,
Phu tế tại Liêu Dương.
Thiếp ý thoa lai vãng,
Quân tâm tự đoản trường.
Sầu biên hàn xúc chức,
Quy lý tú uyên ương.
Liễm đại hoàn thôi kính,
Khai liêm liêm khước hạ sàng.
Nguyệt tà không phục ảnh,
Mai sấu bất thành trang.
Đàn tác “Ly loan” khúc,
Nhân phong ký viễn phương.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Đại vũ kỳ 1
Đại La thành ngoại vũ miên miên,
Tây Nhị giang đầu thuỷ tẩm thiên.
Cam trạch tổng phì thu tảo liệu,
Dư ba ưng cập tuế viên điền.
Xuất môn xứ xứ kham thừa đĩnh,
Bão tráp gia gia tự chướng xuyên.
Hữu ước cố hương nhân thả chí,
Chư quân bất cấp vị kim niên.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Dịch nghĩa
Bên ngoài thành Đại La mưa dai dẳng
Ở đầu sông Nhĩ phía tây nước liền trời
Đầm nước ngọt tràn đầy rong nghễ mùa thu
Sóng thừa quanh năm đầy ruộng vườn
Ra cửa nơi nơi phải đi thuyền
Ôm cái mai nhà nào cũng tựa như muốn ngăn nước sông lên
Có hẹn với quê nhà người hãy đến
Các ông chẳng cần gấp vội gì về năm nay

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Tạc dạ sương nga u giáng cung,
Như hà chi lệ tản mạn không.
Phùng Di nộ phóng giao long đấu,
Khôn trục khuynh tễ thảo mộc cùng.
Dao tương vị thuỳ trung dã tử,
Ỷ lâu hà sự Thiếu Lăng ông.
Thỉnh tương hạ ấp thiên gia khí,
Giá tác vân gian vạn trượng hồng.

Dịch nghĩa
Đêm qua cô gái goá lặng lẽ trong cung cấm
Nước mắt như sông tràn tuôn khắp nẻo
Hà Bá nổi giận để cho loài giao long đánh nhau
Trục đất nghiêng đẩy cỏ cây đến tận cùng
Người trong cánh đồng hoang kia vì ai khua mái chèo
Ông lão Thiếu Lăng việc gì mà đứng tựa lầu
Xin đem khí lực của nghìn nhà nơi thôn ấp
Bắc làm cây cầu vồng muôn trượng giữa khoảng mây trời

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Vị kinh Tần hoả nhật,
Hà địa bất Đào Nguyên?
Thế lộ tài tao võng,
Tiên gia cộng kết thôn.
Đường tiền nhưng nguyệt đáo,
Động khẩu để vân đồn.
Tái phỏng tri vô lộ,
Thôi tà bất đáo môn.
Độ niên vong Tấn Nguỵ,
Khoản khách hữu kê đồn.
Tử lãng tha hương diễm,
Hồng trần cách lộ huyên.
Y quan toàn vị cải,
Thư quyển định do tồn.
Nhất uỷ hoa khai lạc,
Thành hề tổng bất ngôn.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Củ củ thuỳ gia tử,
Y phá lạp bất hoàn.
Thúc tòng nam phương lai,
Hướng ngã tiền đầu thán.
Vấn tử hà sở ưu?
Tự vân: “Trường gian nan.
Gia bần nghệ y bốc,
Ngã lai tẩu Trường An.
Trường An vô bệnh nhân,
Quần y như khâu sơn.
Linh đinh vọng quy lộ,
Cực mục vân man man.
Nhị nhật điển không khiếp,
Tam nhật xuyết ung xan.
Phùng nhân đãn ngộ hỉ,
Dục ngôn thanh lũ can.”
“Y! Tử thả hưu lệ,
Nhất quỹ dữ tử hoan.
Du du nghịch lữ trung,
Bách niên thuỳ tự khoan.
Mạn dã mạc sậu yến,
Bạo doanh phi tráng nhan.”

Dịch nghĩa
Lủi thủi ai đi kia
Áo rách nón không nguyên vẹn
Chợt từ phía nam lại
Ðến trước mặt ta than thở
Hỏi ông có gì lo buồn
Nói rằng gặp khó khăn hoài
Nhà nghèo làm nghề thuốc, nghề bói quẻ
Tôi tìm đến kinh đô
Ở kinh đô không có người bệnh
Thầy thuốc mọc nhiều như gò đống
Cô đơn không nơi nương tựa, ngóng đường về
Nhìn mút mắt xa thăm thẳm mây mênh mang
Ngày thứ hai đem cầm cái tráp rỗng
Ngày thứ ba nhịn ăn bữa sáng bữa trưa
Gặp người chỉ mừng hụt
Muốn nói thêm nhưng nghẹn lời
Thôi, ông đừng khóc nữa
Một bữa ăn đây, cùng ông vui
Ðời người như quán trọ
Trăm năm mấy ai được ung dung
Hãy thong thả, đừng vội nuốt
(Ðang đói) ăn nhanh đầy bụng không tốt đâu.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Sạ kiến nan vi ngữ,
Dao ưng thứ ngã ngu.
Bất tài diệc ma chiết,
Đa bệnh cánh trì khu.
Hải viễn giang quy cấp,
Thiên hàn nguyệt xuất cô.
Cử bôi thời tự vấn,
Quyện mã thượng trường đồ.

Trần Ngộ Hiên tức Trần Dĩnh Tú, người làng Diên An, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, đỗ cử nhân năm Ất Dậu (1825), làm quan đến Kinh Triệu doãn tức phủ doãn Thừa Thiên, phó đoàn trưởng phái đoàn đi Giang Lưu Ba.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Tạm biệt hoàn lai thử,
Cư nhiên nhất mệnh vinh.
Thư truyền thiên lộc phú,
Quan tưởng ngọc đường thanh.
Đắc lộ chiêm hào tuấn,
Vô tài đáp thánh minh.
Lương tiêu thu nguyệt hảo,
Đãi lậu viện trung hành.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Nhân sinh phi thảo mộc,
Ai lạc hệ tri thức.
Thuỳ vô thân gia luỵ,
Phủ ngưỡng lệ triêm ức.
Dư sinh phù danh ngộ,
Thập niên trệ văn mặc.
Gian nan nhất đệ hậu,
Tiều tuỵ vô nhan sắc.
Thị hành lý vận lai,
Tuần tỉnh mị bất khắc.
Kinh phong hốt hà tòng?
Phi điểu tập kỳ dực.
Minh thế vô khí tài,
Sơ chuyết tự chiêu thắc.
Bổ quá niệm my thâm,
Há duy đãn thuỳ mặc.
Khách tự cố hương lai,
Kiến ngã phục thán tức.
Đạo quân hữu hận sự,
A tỷ dĩ quyên vực.
Cức thủ khải giam thư,
Tinh thần loạn hoàng hoặc.
Ô hô cốt nhục tình,
Viễn khách huống my trắc.
Ngã hành vị sổ nguyệt,
Sự biến lũ bất trắc.
Lai nhật thả do đa,
Thuỳ năng liễu thông tắc.
Du du thiên địa tâm,
Thương cảm hà thì cực?
Nhật mộ độc trầm ngâm,
Tam vãng vọng thành bắc.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Vấn tấn, Chương Sơn cựu ẩn thôn,
Cao đường vô dạng lưỡng nhi tồn.
Lục niên sinh tử phù trầm địa,
Nhất chỉ giao du cảm khái ngôn.
Kim cổ sự đa tu thức định,
Văn chương đạo tiểu lại cùng tôn.
Diệc tri hệ vật phi trường sách,
Đầu bạch quy lai dã bế môn.

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Dịch nghĩa
Hỏi thăm Chương Sơn là nơi ở cũ
Bác mẹ bình yên, hai trẻ vẫn thường
Qua sáu năm ở nơi sống chết chìm nổi
Một mảnh giấy ghi lời cảm khái bạn bè
Việc kim cổ có nhiều, cần phải nhận định vững chắc
Văn chương là đạo nhỏ, nhưng cũng nhờ lúc cùng mà nâng cao
Vẫn biết rằng buộc mình vào việc đời không phải là kế lâu dài
Vậy khi đầu bạc cũng sẽ trở về đấy đóng cửa lại

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Cổ nhân bất thức kim nhân hận,
Tài đáo thương ly thuyết tận tình.
Minh nhật dục từ Nam phố đạo,
Hà nhân cánh xướng Bắc cung thanh?
Hàn y cô quán phong sương thiểu,
Vụ hợp thâm thôn trúc thụ bình.
Tiếu sát Tầm Dương tuý tư mã,
Thanh sam hà sự lệ tung hoành?

Dịch nghĩa
Người đời xưa không biết mối hận của người đời nay
Vừa mới buồn vì chia phôi đã kể lể hết nông nỗi.
Ngày mai ta muốn từ biệt con đường phố Nam này
Biết ai sẽ lại hát cho ta nghe giọng Bắc nữa?
Trời rét, nương náu ở nơi quán cô quạnh, cũng tạm đỡ gió sương
Chiều tối, mây mù bao phủ xóm xa xa, cây cối đều im ắng cả
Đáng cười chết cả ông Tư Mã say ở bến Tầm Dương
Việc gì phải khóc đến nỗi nước mắt ướt đẫm áo xanh?

Trong “Cao Bá Quát – Danh nhân truyện ký” của Trúc Khê có tên là “Đề đào nương xá” (Đề nhà ả đào), còn trong “Thơ văn Cao Bá Quát” của NXB Văn học thì có tên như ở đây.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Thập cấp hành nan tận,
Bằng cao vọng dục mê.
Địa phân kinh dã tiểu,
Thiên nhập quảng sơn đê.
Khám hải phàm như diệp,
Môn quan lộ tự thê.
Hỉ khán thâm thụ ngoại,
Bạch xứ thị thanh khê.

Dịch nghĩa
Lần theo từng bậc leo mà lên mãi không hết
Từ trên cao nhìn ra xa chỉ thấy lờ mờ
Đất chi kinh thành đồng nội (đất như) nhỏ lại
Trời hoà vào cùng núi rộng (trời như) thấp xuống
Trông xuống biển: cánh buồm như chiếc lá
Lần theo cửa ải: đường đi tựa chiếc thang
Thích thú ngắm nhìn mé ngoài vùng cây rậm
Nơi có màu trắng kia chính là dòng suối trong

Hải Vân: Một dãy núi cao giáp biển, phân cách hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Nam. Ở đầu núi có cửa ải tên là Hải Vân quan.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Sơn ngại thanh sơn vạn lý trình,
Sơn biên dã thảo tống nhân hành.
Anh hùng mạc vãn thiên niên quốc,
Chinh chiến không tồn nhất luỹ danh.
Bắc lĩnh đoạn vân thu túc vũ,
Nam trang sơ hiểu đới tân tình,
Há sơn phản giác đăng sơn khổ,
Tự thán du du uỷ tục tình!

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Nhật xuất yên thu sơn khí giai,
Du nhiên thừa hứng ngẫu đăng đài.
Tản Viên, Tam Đảo khuynh thiên hạ,
Nhị thuỷ, Tây hồ súc địa lai.
Thiên lý giao nguyên vân ngoại hiện,
Cửu trùng lâu các kính trung khai.
Tích niên cộng sự kim hà tại?
Tôn tửu bồi hồi đối tuyết mai.

Khán Sơn là một núi đất ở thành Thăng Long thời Lê, nơi vua Lê Thánh Tông (1460-1497) dựng khán đài để duyệt binh lính tập trận, về sau từ khán đài thành Khán Sơn.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Đệ nhất phồn hoa thử cựu kinh,
Nùng sơn, Nhị thuỷ tối cao thanh!
Thiên niên thành quách không kim cổ,
Thập lý nha phường lão tử sinh.
Hàn thực hầu gia yên sắc đạm,
Hương phong tửu điếm liễu hoa minh.
Bất kham phiếm đĩnh Tây hồ nguyệt,
Cố quốc tà dương dịch sổ thanh.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập (tập 1), NXB Văn học, 2004

Độc chước nan vi tuý,
Luận tâm khả vong quy.
Thì thanh tráng sĩ tiện,
Quan vãn cố giao hy.
Vũ dạ phùng nam cúc,
Giang thiên ẩn Thiếu Vi.
Thi tài thảng khu sách,
Bì niết trượng sương uy.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Cửu nguyệt vọng hậu thiên khí lương,
Bạch nhật ảm thảm thần vô quang.
Ky nhân bồng phát toạ đoạn sàng,
Bi phong táp táp xuy y thường.
Bộ đinh khiết lai thanh lang lang,
Hoán thủ túc xúc phó sảnh đường.
Phiên thân hà giới tuỳ nhạn hàng,
Tệ cân bất chỉnh tẩu thả mang.
Nhập môn ngục tốt hiệp lưỡng bàng,
Đô nhân hãi quan như đổ tường.
Đại quan liệt toạ hạ nhất lang,
Hô xuất ngục cụ la trí tương.
Cự đằng chi tiên trường thả trường,
Phu tử nhục ngạnh nhu như cương.
Ky nhân yển ngoạ hình thương hoàng,
Hồi đầu trắc cố như kinh dương.
Thủ thân cước trực lưỡng nhãn hoang,
Vũ hậu thấp độc chưng bàng quang.
Lương cửu vấn tấn khẩu bất trương,
Khổ đạo khuất khuất hào khung thương.
Quan thanh tích lịch tồi đài lương,
Điện quang thiểm thiểm giao phi tường.
Hân như song giao bác hoại đường,
Bãi như lãnh thuỷ quán cấp thang.
Lưỡng mộc trác lập thế quật cường,
Thân thanh thập nhị hồi tu lang.
Ô hô nhất chi xuân hải đường,
Tồi chiết bất biện Xương Châu hương.
Thử thì mộ thiên quýnh thương mang,
Đài giác vị ngã phi thanh sương.
Đằng tiên thuỳ thuỳ khí bất dương,
Củng lập nhiễu chỉ hồi nhu trường.
Đắc táng mệnh dã nhân chi thường,
My mục như nhân hà thích thương?
Quốc ân gia trạch vị thiểu thường,
Dũng phu na tử hàn mặc trường.
Ta tai đằng tiên!
Nhĩ bất kiến:
Đức Giang chi dương,
Nguyệt Hằng chi cương.
Thượng hữu bán tử chi tùng bách,
Đột ngột đống cửu nhi tương vọng.
Cẩu phất khí vu triết tượng,
Cố vô thủ hồ kê thê dữ dự chương.
Nhi hà tiễn phạt chi đương.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Tuyệt đại từ nhân hảo,
Tài hoa quán hữu Đường.
Tự văn kinh mạt toạ,
Các thế khống Nam Xương.
Tử phủ thần tiên quán,
Hồng Châu đế tử hương.
Giang hồ hàm khí tượng,
Ngưu Đẩu diệu quang mang.
Cực phố sinh thu thuỷ,
Hàn triều tống tịch dương.
Nhất thiên tài tử phú,
Bách xích đại giang vương (vọng).
Lộ bố khoa kê hịch,
Phong phàm trợ mã đương.
Ỷ lan phi độc bãi,
Khảng khái điếu Đằng Vương.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

Sơ hoàng lâm khúc kính,
Hồng diệp nhiễu u cư.
Tà nhật nhan thường trú,
Xuân phong dữ vị trừ.
Quế hoa hương thụ mính,
Tiêu diệp lục phiên thư.
Ngã dục huề Ma Cật,
Quân khán hoạ bất như.

Đức Khê Tử chưa rõ là ai. Nguyễn Tuần Phủ là tự của Nguyễn Văn Lý (1795-1868), hiệu Chí Hiên, Chí Đình, Đông Khê, còn có tự Chí Am, người làng Đông Tác, huyện Thọ Xương, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, là bạn thân của tác giả. Ông đỗ cử nhân khoa Ất Dậu (1825), tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1832) đời Minh Mệnh. Ông từng giữ các chức Hàn lâm viện biên tu, Tri phủ Thuận An, Án sát Phú Yên, Đốc học Hưng Yên.

Nguồn: Cao Bá Quát toàn tập – tập 1, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, 2004

BST Kho Tàng Thơ Đặc Sắc

Trên đây chúng tôi đã cập nhật cho các bạn phần nào trong kho tàng văn thơ của Cao Bá Quát, hy vọng các bạn sẽ thích bài viết trên của chúng. Mời các bạn đón xem phần 3 nhé! Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết! 

thông tin bạn đọc quan tâm

shop hoa tưoi thanh pho vi thanh hau giang

shop hoa thành phố vị thanh , shop hoa tươi thành phố vị thanh  ,shop hoa tươi an giangiang

xem thêm >> hoa sinh nhật đẹp , hoa khai trương, hoa đám tang, điện hoa , hoa lan hồ điệp  . shop hoa tươi Địa chỉ shop hoa


xem thêm >> hoa sinh nhật đẹp , lẵng hoa khai trương ,  điên hoa chia buồn , dien hoa

shop hoa tươi quang binh

Bài viết trước:

BÀI VIẾT MỚI